Trong những năm gần đây những hãng đèn pin mới xuất hiện liên tục. Để bán được hàng, họ ra sức gia tăng các thông số khủng trên những cây đèn pin. Chắc các bạn đã không còn lạ những chiêu trò quảng cáo đèn pin chiến thuật sáng 3000-4000 lumen và sáng lâu lên đến 200 giờ.
Dựa vào đâu các hãng này công bố những con số này. Đó là họ công bố theo Tiêu chuẩn FL1.
Làm sao mà đèn pin của họ sáng thế, sáng lâu thế?
Bài viết này giúp bạn hiểu được tiêu chuẩn FL1 và cách các nhà sản xuất đèn pin, và đặc biệt là đèn pin chiến thuật của Tàu khựa lợi dụng FL1 để làm công cụ marketing.
Sự ra đời của chuẩn FL1
Năm 2009, một tiêu chuẩn công nghiệp đã được Viện Tiêu chuẩn Quốc gia Hoa Kỳ American National Standards Institute (ANSI) thiết lập để đánh giá hiệu suất của đèn pin.
Tiêu chuẩn này, được biết đến với tên gọi FL1, cung cấp các định nghĩa để định lượng các thông số khi sản xuất đèn pin. Các yêu cầu kỹ thuật cho thử nghiệm thả rơi và thử nghiệm khả năng chống nước tương đối đơn giản, trong khi các yêu cầu kỹ thuật và phương pháp thử nghiệm cho công suất đầu ra(Lumen) và thời gian hoạt động(Runtime) lại phức tạp hơn rất nhiều.
Với Tiêu chuẩn FL1, các cụm từ tiếp thị mơ hồ, phóng đại về thông số đèn pin đã là quá khứ và việc so sánh trực tiếp các mẫu đèn pin từ các nhà sản xuất khác nhau là có thể thực hiện được. Việc tuân thủ Tiêu chuẩn FL1 là tự nguyện, và đại đa số các nhà sản xuất đèn pin lớn trên thế giới đều áp dụng tiêu chuẩn này.
Ngay sau khi Tiêu chuẩn FL1 ra đời, một số hãng đèn pin hàng đầu đã gần như ngay lập tức áp dụng cho sản phẩm đèn pin của mình, bao gồm: 4Sevens, Brinkmann, Energizer, NEXTORCH, Fenix, JETBeam, Inova, Mag Instrument, Streamlight, và Shumway.
Giải thích Tiêu chuẩn FL1 một cách đơn giản
Sản lượng ánh sáng [Đơn vị: Lumen]
Sản lượng ánh sáng là tổng lượng ánh sáng phát ra từ nguồn sáng, được đo bằng đơn vị Lumen. Phép đo được thực hiện bằng cách cho nguồn sáng hoạt động liên tục trong một quả cầu thu sáng; và hoạt động liên tục trong vòng 30 giây. Tổng lượng ánh sáng này sẽ được một máy đo thu nhận và ghi chép lại.
Cường độ chùm tia cực đại [Candela]
Cường độ chùm sáng cực đại là phép đo cường độ ánh sáng ở giữa chùm sáng đèn pin. Đơn vị của cường độ sáng, candela, là một phép đo năng lượng. Một nguồn sáng 1 candela sẽ phát ra 1 lumen trên một diện tích 1 mét vuông tại một khoảng cách 1 mét kể từ tâm nguồn sáng.
Khoảng chiếu xa [Beam Distance]
Khoảng cách chùm tia sáng chiếu từ đèn pin đến một điểm xa nhất, nơi mà chùm sáng đạt 0.25 LUX. Phép đo này cần sử dụng đến những máy đo LUX chuyên dụng.
Thời gian hoạt động [Runtime]
Thời gian hoạt động được định nghĩa là thời gian, được làm tròn đến 1/4h (Ví dụ 6h15, 8h45, 9h30)), cho đến khi Sản lượng ánh sáng giảm xuống còn dưới 10% so với ban đầu.
Chống nước [IPx]
Khả năng chống nước được xác định bằng cách sử dụng hệ thống xếp hạng IP và ba xếp hạng được sử dụng phổ biến là:
IPx4 – chống nước, hoặc nước văng từ mọi hướng.
IPx7 – chống nước hoặc ngập tạm thời ở độ sâu 1 mét trong 30 phút.
IPx8 – chìm hoặc chìm liên tục ở một số độ sâu quy định trong 4 giờ.
Chống va đập [Máy đo]
Khả năng chống va đập được thử nghiệm với các cú rơi trên bề mặt bê tông ở độ cao quy định với tất cả các phụ kiện dự định, bao gồm cả pin, được lắp vào đèn.
Dùng FL1 để đánh giá một đèn pin tốt
Theo Tiêu chuẩn FL1, Sản lượng ánh sáng đầu ra của đèn pin được đo trong 30 giây sau khi kích hoạt đèn. Thông số này được xem như là mức công suất cao nhất mà đèn pin có thể đạt được. Thời gian đo nhiều hơn 30 giây, mức công suất cao nhất của đèn pin không bị ảnh hưởng.
Thời gian hoạt động, như được định nghĩa bởi Tiêu chuẩn FL1, là khoảng thời gian tính từ khi bắt đầu kích hoạt đèn pin cho đến khi đèn giảm sáng xuống còn dưới 10% so với ban đầu. Với định nghĩa này, một cây đèn pin công suất 200 lumen danh định nhưng cho ra công suất thực tế 21 lumen vẫn được xem xét là trong mức thời gian hoạt động mặc dù thực tế là mức công suất này không đáp ứng được yêu cầu sử dụng của người dùng.
Nắm rõ được hai định nghĩa và phép đo cơ bản này, các nhà sản xuất có thể khai thác những lỗ hổng của Tiêu chuẩn FL1 một cách rất dễ dàng. Bằng cách thiết kế những cây đèn pin có thể đạt tối đa Sản lượng ánh sáng ở mốc 30 giây và sau đó giảm mạnh Sản lượng, nhưng vẫn trong mức trên 10% so với ban đầu, các nhà sản xuất không uy tín vẫn có thể cho ra hàng tá những mẫu đèn pin với lumen và runtime ấn tượng, nhưng chất lượng lại ngược lại hoàn toàn. Và Biểu đồ 1 này là một ví dụ tiêu biểu cho kiểu làm ăn gian dối này.
Biểu đồ 1
Như hình trên, một đèn pin với 30 giây đầu tiên sáng 1000 lumen, như vậy nó được gọi là đèn pin sáng 1000 lumen. Sau đúng 30 giây, nó hạ độ sáng xuống còn 100 lumen và sáng suốt 180 phút.
Đây là kiểu thiết kế đèn láu cá để qua mặt các quy định của FL1 để có được con số sáng 1000 lumen và thời gian hoạt động tới 3 giờ liên tục.
Tất nhiên khoảng thời gian sau 30 giây ban đầu, gần 2 giờ 59 phút, đèn sẽ có một mức sáng đáng thất vọng.
Giờ hãy theo dõi biểu đồ 2.
Đường màu đỏ là của một hãng đèn lớn X (chắc Tàu khựa) được gắn mác sáng 1000 lumen và chạy được 2.25 giờ.
Đường vàng hiển thị đầu ra của đèn pin Elzetta Charlie-Model (được công bố ở mức 900 lumen với thời gian chạy là 1,75 giờ).
Theo Tiêu chuẩn FL1, đèn pin đỏ đỏ của hãng X có cả mức độ sáng cao hơn và thời gian chạy dài hơn.
Nghe thật tuyệt phải không? Không quá nhanh nhưng chỉ sau vài phút, đèn pin hãng X giảm Sản lượng xuống dưới 70% giá trị định mức. Ngược lại, Elzetta Charlie duy trì Sản lượng ở mức hoặc trên 90% Sản lượng định mức trong gần một giờ. Khi những con số được trưng ra ánh sáng, Đèn pin Elzetta cho hiệu suất hiệu quả hơn đáng kể so với đèn pin hãng X và duy trì Sản lượng cao không đổi trong thời gian dài hơn nhiều. Nếu ở vị trí người dùng, hẳn là bạn đã biết nên chọn đèn của hãng nào rồi phải không!?.
Trong cuộc sống thực
Tiêu chuẩn FL1 được tạo ra để trở thành tiêu chuẩn chung đánh giá đèn pin. Tuy nhiên các hãng đèn pin lởm khởm lại sử dụng tiêu chuẩn này để có được những con số marketing tốt: Đạt chỉ số tốt với thiết kế láu cá..
FL1 Standard chỉ kiểm tra đèn pin khi hoạt động liên tục cho đến khi pin cạn kiệt đến mức đầu ra giảm xuống 10% so với đầu ra định mức. Trong cuộc sống thực, đèn pin hiếm khi được sử dụng theo cách này. Đèn pin thực tế, đặc biệt là trong các hoạt động chiến thuật, thường được sử dụng trong các vụ việc nhất thời hoặc thời lượng tương đối ngắn. Đèn pin được thiết kế để khai thác kẽ hở của Tiêu chuẩn FL1, như được hiển thị ở trên, tối đa hóa sản lượng ban đầu trong vòng 30 giây đầu tiên hoạt động.
Đầu ra tối đa này thường đạt được bằng cách quá dòng từ pin. Bằng cách đẩy công suất như vậy, thiết bị tiếp tục hoạt động trong tình trạng quá tải. Dòng điện cao như vậy từ pin có thể làm giảm đáng kể độ tin cậy và thậm chí gây ra các vấn đề an toàn nghiêm trọng. Nó cũng giảm thời gian chạy thực tế về runtime theo chuẩn FL1.
Điều này dẫn tới một thực tế tréo ngoe, đó là tuy dùng chung Tiêu chuẩn FL1 nhưng lại không thể so sánh trực tiếp 1 cây đèn pin chất lượng cao, như Elzetta, với một cây đèn của hãng X,thường là từ Trung Quốc, nào đó. Sau đó lại nói rằng tuy là hãng không tên tuổi nhưng có chất lượng, cũng như tính năng, ngang ngửa, thậm chí là cao hơn Elzetta là điều hoàn toàn không chính xác.
Chỉ khi nào được so sánh trực tiếp bằng các biểu đồ Sản lượng/thời gian kiểu này thì mới có được những đánh giá chuẩn xác. Tuy nhiên, những biểu đồ này rất ít khi được các hãng sản xuất công bố. Việc tìm hiểu và có thêm những kiến thức cơ bản về Tiêu chuẩn FL1 sẽ giúp người tiêu dùng có những lựa chọn về đèn pin chính xác hơn cho mình.
Tham khảo tại ĐÂY